Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và 25 hạnh nguyện của Ngài
Ngày 4 tháng 4 năm Tân Sửu (ngày 15/5/2021) là ngày vía Đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, vị Bồ Tát tượng trưng cho trí tuệ, giác ngộ bằng phương tiện tri thức. Hãy cùng Trầm Tuệ tìm hiểu Đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, về những huyền tích và hạnh nguyện của Ngài.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi là ai?
Văn Thù Sư Lợi tên đầy đủ là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát, dịch âm là Mạn-Thù-Thất-Lợi, dịch ý là Diệu Cát Tường nghĩa là tất cả diệu sự thế gian hay xuất thế gian đều do trí tuệ mà có. Cát Tường nghĩa là an lành.
Thuở xưa Ngài là con thứ 3 của Vua Vô Tránh Niệm tên là Vương Chúng Thái Tử, Ngài cúng dường Phật Bảo Tạng và Tăng chúng trọn ba tháng an cư.
Lúc ấy, có quan Đại Thần là Bảo Hải thấy vậy thì khuyên rằng: "Nay Điện hạ đã có lòng làm sự phước đức, tạo nghiệp thanh tịnh, nên vì hết thảy chúng sanh mà cầu đặng các món trí huệ, và đem công đức ấy hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì tốt hơn là mong cầu mọi sự phước báu nhỏ nhen".
Vương Chúng Thái Tử nghe quan Đại thần khuyến như vậy, thì liền chấp tay mà thưa với Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Công đức tôi cúng dường Phật Tăng và những hạnh nghiệp tu tập thanh tịnh của tôi đó, nay xin hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề, nguyện trải hằng sa kiếp tu hạnh Bồ Tát, đặng hóa độ chúng sanh, chớ tôi chẳng vì lợi ích một mình mà cầu mau chứng đạo quả.
Tôi nguyện hóa độ hết thảy mọi loài chúng sanh ở các thế giới trong mười phương đều phát tâm cầu đạo Vô Thượng Chánh Giác, giữ gìn tâm Bồ Đề cho bền chắc..."
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện rồi, liền thọ ký cho Vương Chúng Thái Tử đặt hiệu là Văn Thù Sư Lợi, sau là Phật Phổ Hiền Như Lai.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi xuất hiện hầu như trong tất cả các Kinh đại thừa như Kinh Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật… Thời Phật Thích Ca, Ngài thuộc dòng dõi Bà La Môn Như Đức thuộc nước Xá Vệ, Ngài cùng với Bồ Tát Phổ Hiền đại biểu cho Trí Tuệ và Đại Hạnh có trách nhiệm trợ hóa về giáo lý đại thừa.
Hình tượng Văn Thù Bồ Tát
Biểu tượng đặc thù của Ngài là ngồi trên lưng sư tử biểu thị cho sự sắc bén của Pháp Môn, dùng tiếng rống của sư tử không sợ hãi, trấn tỉnh chúng sinh đang bị mê đắm.
Tay phải giương cao lên khỏi đầu là một lưỡi gươm đang bốc lửa. Tay phải là bàn tay của Chánh Pháp, chân lý, nó mang hàm ý rằng, chính lưỡi gươm trí tuệ này sẽ chặt đứt những xiềng xích trói buột của vô minh đưa con người đến trí tuệ viên mãn. Trong khi đó bàn tay trái của Ngài đang cầm giữ cuốn Kinh Bát Nhã biểu trưng cho tỉnh thức giác ngộ.
Chiếc giáp Ngài mang trên người gọi là giáp nhẫn nhục, nhờ nó mà các mũi tên thị phi không xâm phạm vào thân, nó có thể che chở cho Ngài vẹn toàn tâm từ bi.
Hạnh Nguyện Của Văn Thù Bồ Tát
“1. Công đức tôi cúng dường Phật, Tăng và những hạnh nghiệp tu tập thanh tịnh của tôi đó, nay xin hồi hướng về đạo Vô thượng Bồ Đề, nguyện trải hằng sa kiếp tu hạnh Bồ Tát, đặng hóa độ chúng sanh, chớ tôi chẳng vì lợi ích một mình mà cầu mau chứng đạo quả.
2. Tôi nguyện hóa độ hết thảy mọi loài chúng sanh ở các thế giới trong mười phương đều phát tâm cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, giữ gìn tâm Bồ Đề cho bền chắc, và khuyến hóa theo môn Lục Độ.
3. Tôi nguyện giáo hóa vô số chúng sanh ở các thế giới đều đặng thành Phật thuyết Pháp trước tôi, và trong khi thuyết Pháp, làm sao cho tôi đều xem thấy tất cả .
4. Tôi nguyện trong khi tu Bồ Tát đạo, làm đặng vô lượng việc Phật, và sanh ra đời nào cũng tu theo đạo ấy cả.
5. Bao nhiêu chúng sanh của tôi dạy dỗ đều đặng thanh tịnh, như các người đã có tu phép thiền định ở cõi Phạm Thiên, tâm ý không còn điên đảo. Nếu đặng các kẻ chúng sanh như vậy sanh về cõi tôi, thì khi ấy tôi mới thành đạo .
6. Tôi nguyện đem các món hạnh nguyện mà cầu đặng cõi Phật trang nghiêm và nguyên hết thảy các cõi Phật đều hiệp chung lại thành một thế giới của tôi.
7. Hết thảy chúng sanh đều hóa sanh, chớ không phải bào thai trong bụng mẹ như các cõi khác, và hằng tu tập các pháp thiền định, vui đẹp tự nhiên, chớ không cần phải ăn uống những đồ vật chất.
8. Trong cõi tôi không có người Tiểu thừa, Thanh Văn và Duyên Giác. Thảy đều là các bực Bồ Tát, căn tánh cao thượng, tâm trí sáng suốt, người nào cũng đã xa lìa mọi sự tham lam, hờn giận, ngu si, và đã tu đặng các môn phạm hạnh cả.
9. Trong khi chúng sanh sanh về cõi tôi, thì tự nhiên đủ tướng mạo Tỳ khưu, đều có cạo tóc và đắp y một cách chỉnh đốn cả.
10. Chúng sanh trong cõi tôi muốn ăn, thì tự nhiên có bình bát thất bảo cầm ở nơi tay và đủ các món đồ ăn ngon đẹp đầy bát. Khi ấy lại nghĩ rằng: Chúng ta chớ nên dùng những đồ này, nguyện đem bố thí; trước hết dâng cúng cho các Đức Phật, Bồ tát, Thanh Văn, và Duyên Giác, sau nữa thì chúng sanh nghèo hèn và các loài Ngạ quỉ đói khát đều dùng no đủ. Còn phần chúng đẹp, tức là món ăn .
11. Mọi người suy nghĩ như vậy, liền đặng pháp Tam Muội, gọi là “Bất Khả Tư Nghị Hạnh”. Có sức thần thông, dạo đi tự tại, không có sự gì ngăn ngại tất cả. Độ trong giây phút, mọi người được dạo khắp các thế giới mà cúng dường Phật, bố thí và diễn thuyết các Pháp cho chúng sanh nghe rồi trở về nước thì vừa đúng bữa ăn .
12. Tôi nguyện trong thế giới của tôi không có tám món chướng nạn và các sự khổ não, cũng không có những người phá hư giới luật.
13. Tôi nguyện trong thế giới ấy có nhiều món châu báu rất lạ lung và không cần gì phải dùng đến ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Các vị Bồ Tát tự nhiên xung quanh thân thể có hào quang sáng chói, soi khắp các nơi, thường chiếu luôn không có ngày đêm, chỉ xem lúc nào bong nở thì cho là ban ngày lúc nào bong xếp lại cho là ban đêm mà thôi. Còn khí hậu thường điều hòa, không nóng quá và không lạnh quá.
14. Nếu có vị Bồ Tát nào bổ xứ làm Phật các cõi khác, thì trước hết ở nơi cõi tôi, rồi đến cung trời Đâu Suất, sau mới giáng sanh đến cõi ấy.
15. Tôi nguyện hóa độ chúng sanh đều thành Phật hết rồi, tôi mới hiện lên hư không mà nhập diệt.
16. Trong lúc tôi nhập diệt thì có nhiều món âm nhạc tự nhiên kêu vang đủ pháp mầu nhiệm và các vị Bồ Tát nghe đều tỏ đặng các lẽ huyền diệu.
17. Thưa Đức Thế Tôn! Tôi nguyên khi làm Bồ Tát mà dạo trong các cõi Phật, xem thấy những thức trang nghiêm những châu báu, những hình trạng, những xứ sở, và những hạnh nguyện của Chư Phật, thì tôi đều cầu đặng thành tựu tất cả.
18. Tôi nguyện các vị Đẳng Giác Bồ Tát đều ở trong cõi tôi mà đợi đến thời kỳ sẽ bổ xứ làm Phật, chớ không thọ sanh các cõi nào khác nữa. Nếu có vị nào muốn đến cõi khác thành Phật mà hóa độ chúng sanh, thì tùy theo ý nguyện.
19. Thưa Đức Thế Tôn! Trong khi tôi tu đạo Bồ tát, nguyện đặng cõi Phật rất tốt đẹp nhiệm mầu. Các vị Bồ Tát phát Bồ Đề tâm, tu Bồ Tát hạnh, mà đặng bự bổ xứ thành Phật, đều sanh về trong cõi tôi cả.
20. Thưa Đức Thế Tôn! Tôi nguyện đặng như vậy, tôi mới thành Phật, và nguyện ngồi khoanh chân trên tọa Kim cang ở dưới cây Bồ Đề, trong giây lát chứng thành chánh giác.
21. Khi thành Phật rồi, tôi biến hóa Phật và các vị Bồ Tát, nhiều như số cát sông Hằng, đặng dạo các thế giới mà hóa độ chúng sanh, giảng dạy các phép nhiệm mầu và khiến cho hết thảy nghe pháp rồi đều phát Bồ Đề tâm, cho đến khi thành đạo cũng không đổi dời tâm trí.
22. Khi tôi thành Phật rồi, chúng sanh ở trong các cõi nếu thấy đặng tướng tốt của tôi, hằng in nhớ trong tâm luôn luôn, cho đến khi thành đạo cũng không quên.
23. Tôi nguyện chúng sanh trong cõi tôi , người nào cũng đủ căn thân toàn vẹn, không thiếu món gì. Nếu các vị Bồ Tát muốn xem thấy tướng tôi, hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, thì đêu thấy đặng cả. Khi thấy rồi, liền phát Bồ Đề tâm, và lại trong lúc thấy tôi, những sự hoài nghi về đạo Pháp tự nhiên hiểu biết đặng cả, không cần phải đợi tôi giải quyết nữa.
24. Tôi nguyện khi tôi thành Phật rồi, thì tôi đặng thọ mạng vô cùng vô tận, không kể xiết. Còn các vị Bồ tát trong cõi tôi cũng đặng sống lâu như vậy.
25. Trong lúc tôi thành Phật, có vô số Bồ tát đủ tướng mạo Tỳ Khưu, người nào cũng cạo đầu, đắp y, cho đến khi nhập Niết bàn thì những tóc không khi nào để mọc dài, và những y cũng không khi nào đổi bận như đồ người thế tục.”
Thời thờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là để hướng về trí tuệ sẵn có của chúng ta. Vô minh, ái dục đã đưa chúng ta lặn hụp sanh tử luân hồi chất chồng muôn nỗi khổ đau. Chỉ có trí tuệ mới có đủ công năng đưa chúng ta ra khỏi luân hồi nghiệp báo, Bồ tát là tấm gương sáng cho lợi tha , chúng ta phải dùng lưỡi kiếm trí tuệ này để cứu thoát mọi người trước kẻ thù phiền não, của con rắn độc tham, sân, si. Có thực hành như vậy mới xứng đáng đảnh lễ Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát!